Nghị viện Anh Quốc Nghị viện

Có người nói rằng, hàng ghế dài mặt đối mặt ở hạ viện Anh Quốc đã giúp tăng thêm phương thức biện luận mang tính đối kháng.[2]

Nghị viện Vương quốc Liên hợp Anh và Bắc Ireland được khen là "mẹ của nghị viện". Anh Quốc tiên phong sáng lập phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản, và lại tiên phong sáng lập một bộ chế độ chủ nghĩa lập hiến tương thích với nó, đây chính là chế độ dân chủ nghị viện lấy nghị viện làm bộ phận thực chất. Nghị viện Anh Quốc được coi là "mẹ của nghị viện", nếu lấy "nghị viện mô phạm" được triệu tập vào năm 1295 làm điểm mở đầu, như vậy, thực tiễn nghị viện Anh Quốc liên tục không ngừng cho đến nay đã hơn 725 năm. Chỉ xét đúng chiều dài lịch sử của nghị viện Anh Quốc, vẫn không có nghị viện nước nào trên thế giới đuổi theo kịp.

Cái chỗ đáng giá của lịch sử nghị viện Anh Quốc không những có ở chiều dài thời gian của nó lại còn ở chiều sâu và độ phức tạp của mâu thuẫn mà nó trải qua, ở sự phong phú kinh nghiệm và bài học mà nó tích luỹ, ở sự mở mang trí thức mà thực tiễn nghị viện này chứa đựng hơn 725 năm.

Giống với đa số các nước, Anh Quốc đã từng có thời kì xã hội phong kiến khá dài và chế độ quân chủ phong kiến theo cùng với nó. Tuy nhiên điểm khác nhau với số đông chính là, vẫn đặt dưới chế độ quân chủ phong kiến, nghị viện Anh Quốc ngoan cường khai phá, rồi lại liên tục kiên nhẫn trói buộc vương quyền một cách chậm rãi, không vội, cho đến khi đem vương quyền kiên quyết đặt dưới khống chế của nghị viện. Các quân chủ Anh Quốc thời kì phong kiến có không ít khuynh hướng chuyên chế, có cái là quân chủ chuyên chế hoàn toàn đầy đủ, "không đội trời chung" với quyền lực của nghị viện. Vì nguyên do đó, nghị viện Anh Quốc muốn trói buộc quyền lực quân chủ ở thời đại mà toàn thế giới chỉ biết có quyền lực quân chủ mà không biết rõ quyền lực nghị viện, thì không thể không dùng các loại phương thức khác nhau ở khắp nơi để đấu tranh với quyền lực quân chủ. Các nghị sĩ nêu ra ý kiến hoặc yêu cầu tẩy sạch oan khuất hướng về quốc vương; viện cớ yêu cầu thu thuế của quốc vương và triều chính chỉ điểm, để phê phán, công kích bề tôi phạm tội và quân chủ bại hoại. Khi cuộc đấu tranh hoà bình của nghị viện không thể ngăn cấm hành vi chuyên chế của quốc vương, nghị viện chỉ huy đại quân, nhất quyết chiến đấu một mất một còn với quân đội quân chủ. Nghị viện thậm chí có một lần bãi bỏ chế độ quân chủ và kiến lập nước cộng hoà. Trải qua cuộc đọ sức chừng 500 năm với vô số lần, nghị viện cuối cùng chiến thắng chế độ quân chủ, bó buộc quyền lực quân chủ và làm mất thật quyền, đem quân chủ cải tạo thành biểu tượng đất nước mà không có năng lực hành vi tự chủ, khiến cho nó trở thành nghị viện tối thượng để làm dịch vụ công. Nghị viện Anh Quốc chiến thắng chế độ quân chủ phong kiến đã đưa ra cung cấp kinh nghiệm phong phú cho cuộc cách mạng tương tự ở các nước khác, trong đó cái được coi trọng và tiếp nhận nhất chính là: vận dụng quyền tài chính công của nghị viện đả kích vương quyền, dùng chiến tranh đánh bại vương quyền, dùng kĩ thuật "gác lên trên không" - làm mất thật quyền, để cải tạo vương quyền.

Anh Quốc từ thời kì xã hội phong kiến đã hình thành một bộ chế độ tuyển cử nghị sĩ, lại một mạch dùng theo cho đến trước thế kỉ XIX. Chế độ tuyển cử nghị sĩ dưới chế độ quân chủ phong kiến thuận lợi cho quốc vương triệu tập nghị viện, có lợi cho quan lại phong kiến và phú hào thao túng tuyển cử. Dưới chế độ dân chủ nghị viện, nghị viện cần thiết xây dựng nền móng xã hội của riêng mình. Bắt đầu từ năm 1832, nghị viện Anh Quốc liên tục tìm tòi, kiến lập chế độ tuyển cử nghị sĩ loại mới. Đối với yêu cầu tài sản và giới tính của cử tri từng bước bãi bỏ, yêu cầu độ tuổi được hạ thấp, lấy phân chia hành chính làm căn cứ và xác định vùng tuyển cử, rút nhỏ độ chênh lệch dân số giữa các vùng tuyển cử. Kết quả, đội ngũ cử tri từ 18 trở lên bắt đầu nổi lên. Một mặt khác, tài sản và giới tính đối với tư cách ứng viên nghị sĩ cũng loại bỏ tương ứng, yêu cầu độ tuổi được hạ thấp. Do đó, Viện bình dân đã mở rộng cửa lớn hướng về người dân có chí hướng. Chính đảng biến thành người tổ chức của cuộc tranh cử, nó chế định cương lĩnh, đề xuất ứng viên, lo liệu kinh phí tranh cử, cổ động cử tri. Cuộc tuyển cử trở thành sự chọn lựa và trao quyền do cử tri làm ra vây quanh chính sách và ứng viên của chính đảng. Nhà nước cấp cho quy phạm đối với hành vi của cử tri, ứng viên và chính đảng ở trong cuộc bầu cử, và lại làm trọng tài đối với cuộc tranh chấp bầu cử. Một vùng tuyển cử bầu chọn một nghị sĩ, ứng viên được phiếu đa số giản đơn trúng cử. Nghị viện Anh Quốc làm trước tuyệt đại đa số nghị viện nước khác và tìm tòi kiến lập nên chế độ tuyển cử nghị sĩ loại mới, nhiều điểm trọng yếu trong đó được nghị viện các nước lần lượt dùng trích dẫn.